thuật Kiến trúc Sân khấu - Điện ảnh Du lịch - Ẩm thực Âm nhạc - Giải trí Cuộc thi viết Hà Nội & Tôi Trang chủ Văn hóa Văn hóa – Di sản
26/08/2024 14:02
Xứ Đoài xưa, hay còn gọi là trấn Sơn Tây hoặc trấn Hưng Hóa (nay thuộc Hà Nội) là miền quê có nhiều ngôi đình nổi tiếng của người Việt cổ. Trong số những ngôi đình tiêu biểu của nơi đây có thể kể đến đình Tây Đằng, ngôi đình mang kiến trúc độc đáo và ý nghĩa tâm linh sâu sắc.
Giáo sư Trần Quốc Vượng lúc sinh thời đã khẳng định: Đình cổ nhất cả nước có năm ngôi thì ở Hà Nội chiếm cả năm. Riêng Ba Vì có đến ba ngôi, đó là: đình Tây Đằng, đình Thanh Lũng và đình Thụy Phiêu. Ba ngôi đình này đều xây dựng vào đầu thế kỷ XVI dưới thời nhà Mạc. Vật liệu xây dựng đình hoàn toàn bằng gỗ mít và gỗ thông đỏ. Vùng núi Ba Vì là nơi có đền thờ Đức Thánh Tản Viên Sơn, người là Sơn Tinh đánh bại Thủy Tinh trong truyền thuyết “Sơn Tinh - Thủy Tinh”. Ngài dạy dân biết chế ngự thiên nhiên, đắp đê phòng lụt, gieo trồng cấy lúa, phát triển sản xuất, đánh giặc ngoại xâm. Ngài là Đức Thánh Tổ của nền văn minh lúa nước tộc Việt, được nhân dân cả nước tôn thờ là Đệ Nhất Phúc Thần. Cũng vì thế, các đình làng ở hầu hết trong huyện Ba Vì cũng như thuộc vùng đất xứ Đoài xưa phần lớn suy tôn ngài là Thành hoàng làng để thờ cúng và tỏ lòng thành kính, tri ân.
Là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, đình Tây Đằng được xây dựng dưới thời nhà Mạc (1527 - 1592), đến nay đã ngót 500 năm tuổi. Ngôi đình thờ Đức Thánh Tản Viên Đệ Nhất Phúc Thần. Toàn bộ khu đình nằm trên một khuôn viên rộng lớn, thoáng đẹp, hướng Nam ghé Tây trông về đền Đức Thánh Tản trên núi Ba Vì.
Đi qua cổng chính ta bắt gặp một hồ nước lớn, nơi giao hòa giữa trời cha đất mẹ dâng đầy linh khí. Tiếp đến là nghi môn gồm bốn cột đồng trụ, hai cột thấp bên trên có hai nghê chầu, hai cột cao, bên trên mỗi đầu cột có bốn con chim phượng uốn lượn vút lên như một bông hoa dành dành, thể hiện thế nghiêm thiêng của ngôi đình. Sau nghi môn là một sân rộng, nơi tổ chức lễ hội vào dịp xuân về hoặc những ngày cúng tế. Hai bên sân có tả mạc, hữu mạc dẫn vào đại đình.
Trước đây, thềm đại đình chỉ cao khoảng 40cm đủ một bước chân, sau khi trùng tu, thềm đã được nâng thành bậc tam cấp cao 75cm. Sân đình rộng 360m2, được bố cục kiểu 3 gian với sáu hàng cột: hai cột cái, hai cột quân và hai cột con, đó cũng là nét đặc trưng của những ngôi đình cổ. Tất cả các cột đều theo lối “thượng thu hạ thách” kiểu dáng bông đòng đòng và được ngồi trên chân tảng đá ong. Tất cả các cột quân và cột con đều có xu hướng choãi ra, tạo thế mở rộng vùng chân đế và hạ thấp trọng tâm của ngôi đình nhằm tăng độ ổn định, bền vững cho công trình. Đỡ thượng lương là giá chiêng chồng rường kiểu “chồng nhị”. Gian chính giữa đình là sàn thờ Đức Thánh có cửa võng, y môn, lọng che, hai giàn bát bửu và đôi hạc chầu. Sàn thờ quanh năm đóng cửa, trừ những ngày lễ hội. Nhưng do đông khách thăm viếng nên gian thờ lúc nào cũng nghi ngút khói hương, không khí thật trang nghiêm! Các gian hai bên còn lại được bố trí sạp ngồi của các quan viên trong những ngày lễ hội hay khi việc làng. Kết cấu được giữ nguyên theo kiểu nhà sàn của người Việt cổ nơi vùng sơn cước.
Khác biệt của đình Tây Đằng so với các ngôi đình còn lại là không có ván thưng xung quanh, nhờ đó công trình trở nên thông thoáng hơn và bền vững với thời gian. Do đình thấp nên người Việt cổ đã chọn kết cấu rất sáng tạo, mặc dù không có quá giang: việc liên kết cột cái với cột cái là câu đầu, cột cái với cột quân là xà nách. Trên xà nách là chồng rường tạo độ dốc cho mái. Kẻ liền bẩy kéo dài từ cột quân vươn dài đến tàu mái. Hệ thống xà thượng, giằng đầu các cột cái, cột quân và cột con lại với nhau theo chiều dài của ngôi đình. Cột con đỡ thẳng vào bẩy không qua ngàm, như vậy tạo cho bẩy không bị tiết diện giảm yếu khi liên kết với cột con làm cho công trình vững chắc hơn. Bí quyết của cấu trúc công trình được ổn định và bền vững là ở chỗ dùng mộng thắt đuôi én, ngàm và nêm chắc đầu cột cũng như các cột quân, cột con choãi chân thang ra ngoài. Do đặc tính của công trình như vậy nên ngay cả sau khi đã tháo toàn bộ sạp và các xà chân cột, công trình hoàn toàn không suy chuyển gì, vẫn vững vàng cùng năm tháng.
Đình Tây Đằng có tới 1.300 họa tiết được chạm khắc hết sức tinh xảo, đậm nét tài hoa của những con người làm ra nó. Nét đặc biệt có một không hai của ngôi đình này là không một chi tiết nào giống nhau từ họa tiết kẻ liền bẩy bốn góc, kẻ liền bẩy vì chính, đến các đầu dư đầu duôi, xà thượng, các chồng rường, bát đỡ, câu đầu, chếnh xối, ván nong… đều là những tác phẩm nghệ thuật kiệt tác. Mỗi hoa văn một kiểu, các họa tiết hoa văn mang tính đặc sắc của các vùng miền văn hóa khác nhau như: họa tiết người nông dân trồng cấy lúa của vùng đồng bằng Bắc bộ, quăng chài bắt cá của vùng sông nước miền duyên hải, đua thuyền của Nam bộ, chơi đàn tính của đồng bào Tày Nùng, voi chầu của vùng Tây Nguyên, ngựa hí của vùng cao, đấu vật kéo co trong ngày lễ hội mang màu sắc dân gian trung cả nước, cá vượt vũ môn hóa rồng, bộ tứ linh, trời mây hoa lá rất phong phú, có tới vài chục nữ thần cưỡi mây bay lượn trên bầu trời.
Các nữ thần được bố trí trên các đầu duôi khắp bốn phía sát mái đình, hình tượng các nữ thần đầu quấn khăn như những Apsara, cũng với hình tượng Bà Banh mang ý nghĩa phồn thực đậm phong cách của các nghệ nhân Chămpa. Nghệ thuật Chămpa không chỉ thấy riêng ở đình Tây Đằng mà ta còn gặp ở đình Yên Bồ cũng gần đấy. Tượng Bà Banh tại đình Tây Đằng được đặt ở con chồng nằm trên vị trí xà nách. Còn tượng Bà Banh ở đình Yên Bồ được đặt phía trên giữa thượng cung, phía trước bài vị Thành hoàng làng, gây một cảm giác tín lễ của phong tục Chăm, cùng với chiếc gậy hỉ. Khi người nào hiếm con trai đều đến xin cầu tự ở đây, nghi thức thường là: Sau khi ông ng từ làm lễ cúng Thành hoàng xong, người chồng cầm gậy hỉ chọc vào khe linh của Bà Banh ba lần. Sau chín tháng mười ngày là đạt được linh ứng. Thể thức tín ngưỡng này giống như Linga và Yoni nguyên bản vùng tháp Chàm và Tây Nguyên. Năm 2005, Bộ Văn hóa - Thông tin đã chủ trì việc trùng tu ngôi đình. Cột gỗ mít và thông đỏ được thay thế bằng gỗ lim, các chân tảng bằng đá ong được thay bằng đá xanh. Chỉ còn một vài cột cái, cột quân và một phần cột con là cố giữ lại. Các họa tiết đặc biệt quý hiếm của đình Tây Đằng vẫn được bảo tồn nguyên giá trị vốn có. Việc trùng tu đã đảm bảo kĩ thuật tốt, đảm bảo độ vững chãi của ngôi đình. Tiếc rằng, toàn bộ các cột được thay thế chỉ giữ lại được phần thượng thu hạ thách, còn dáng kiểu bông đòng đòng thì đã không còn, nên phần nào xa cách với di sản xưa. Bốn trụ đăng nghi môn cũng chỉ giữ lại được phần trụ lớn về phía bên phải của ngôi đình. Đỉnh trụ bốn góc chạm bốn con phượng uốn lượn thành bông hoa dành dành. Dáng trụ thanh thoát và nghệ thuật rất tinh xảo tiếc rằng, trụ lớn phía đối diện và hai trụ con hai bên đắp còn thô lược. Hậu thế không thể bắt chước được tiền nhân.
Đình Tây Đằng là sản phẩm đặc biệt độc đáo, đầy ắp các di vật quý giá cả về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của ông cha. Với những giá trị văn hóa, kiến trúc, chạm khắc độc đáo, tài hoa, sống động, đình Tây Đằng như một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ XVI và là di sản văn hóa kiến trúc độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ con cháu muôn đời sau. Vì thế rất cần bảo tồn, tôn tạo và gìn giữ di sản đặc biệt quý giá này./.